Thời Phật tại thế không có chùa như ngày nay, các sư phải đi khắp nơi giảng đạo. Vào những tháng mùa mưa, đường sá ngập lụt, các sư phải tìm nơi cao ráo tập trung để học tập, gọi là An Cư. Lệ ba tháng an cư của các sư được duy trì cho đến nay (ở Việt Nam, từ 15/4 đến 15/7 âm lịch hàng năm, ở ấn Độ mùa mưa kết thúc chậm hơn vào 15/9). Vu Lan là lễ báo hiếu tổ tông, ông bà, cha mẹ. Lời Phật dạy Đại đức Mục Kiền Liên về việc báo hiếu này gọi là “Kinh Vu Lan”. Sự báo hiếu không chỉ vào dịp lễ Vu Lan hàng năm mà phải thực hiện hàng ngày, ghi tạc công ơn trời bể của cha mẹ khi còn sống cũng như đã chết. Việc báo hiếu phải thành tâm, quan niệm báo hiếu của Phật học không phải đợi lúc cha mẹ ông bà chết mới phô trương ma chay, cúng giỗ, mà phải săn sóc quan tâm đến cha mẹ khi cần, vâng lời cha mẹ, không làm điều gì khiến cha mẹ nghĩ ngợi.
Tổ tiên ta tiếp nhận những tích truyện này trên cơ sở sáng tạo, biến thành lễ “Xá tội vong nhân”. Không chỉ là dịp để tỏ lòng thành kính với các bậc sinh thành mà cúng tất cả các cô hồn đơn chiếc nói chung. Người ta cho rằng những ai khi sống thất đức, phạm nhiều tội ác thì chết xuống âm phủ linh hồn sẽ bị xiềng xích, đày ải nơi chín tầng địa ngục. Tuy nhiên, mỗi năm đến dịp rằm tháng Bảy, xiềng xích được mở để mọi cô hồn có dịp trở về dương thế gặp lại người thân, nhận tiền vàng, đồ ăn và quần áo. Mỗi năm một lần, mọi linh hồn bất kể khi sống độc ác thế nào, đến ngày đó vẫn được “xá tội”, được hưởng sự tha thứ, yêu thương của đồng loại. Nhà nhà mua sắm đồ vàng mã, nấu cháo loãng, rang bỏng ngô chuẩn bị cúng ngoài trời để đãi các “ma đói” - những cô hồn vật vờ không có người thân cúng giỗ.
Như vậy, ngày Rằm tháng Bảy không chỉ là đại lễ để con cháu báo hiếu với tổ tông, ông bà, cha mẹ mà còn là ngày bỏ qua những ân oán, hướng về việc thiện. Tương truyền, vào dịp lễ Vu Lan, ai còn mẹ thì cài lên ngực áo bông hồng đỏ, ai không còn mẹ thì cài lên ngực áo bông hồng trắng...