Tản văn:
Có hai cách để săn chim mía. Chọn những hôm mưa gió, chúng tôi mang theo đèn pin, ống đồng và những “hạt đạn” nặn bằng đất sét, trộn chút muối sống phơi khô. Số “đạn” được vo tròn cho vào ống đồng. Khi đã xác định được vị trí chỉ cần cầm ống đồng lên cao, chĩa về chỗ chim mía và thổi mạnh. Bầy chim mía đang co ro ngủ trên đám lá trúng “đạn” rơi lộp độp. Sau đó chỉ cần soi đèn pin và nhặt chim mía vào giỏ. Còn nếu dùng lưới thì lựa trời chiều khi bóng hoàng hôn chập choạng, dò xét hướng chim bay và giăng lưới. Bắt chim mía bằng lưới cần sự chung sức của nhiều người. Người thì căn tay lưới, người quăng về hướng định sẵn. Một số lại chia nhau len lỏi lội vào các đám mía lân cận, nhè nhẹ đuổi cho bầy chim di chuyển dần đến chỗ giăng lưới chực sẵn. Tiếng hú hét vang cả một góc trời, bầy chim lưới bay ra mắc bẫy, nằm gọn trong bọng lưới. Thật khó có thể miêu tả được cảm xúc lúc nhặt chim mía từ bọng lưới vào giỏ. Lâng lâng và sung sướng làm sao.
Mẹ tôi chế biến chim mía rất ngon. Chim mía nướng mang vị dai của thịt, giòn của xương, béo của da và nhai kỹ thì rất ngọt. Nhờ có chim mía mà bữa cơm nhà nghèo phần nào cải thiện được chút dinh dưỡng. Mới đó mà đã gần hai mươi năm trôi qua. Những cánh đồng mía ở quê bị thu hẹp dần diện tích, nhường đất cho một số nhà máy mọc lên. Bầy chim mía cũng bị “tận thu” buôn bán vào các nhà hàng trên phố, nên chim thưa dần, không còn nhiều như xưa. Tuổi thơ tôi đã lùi lại phía sau nhưng dư âm về những mùa chim mía thủa nào vẫn còn mãi.