Học tập, quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 8, Khóa XIII

Một số thành tựu trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại bảo vệ Tổ quốc

09:19 - Thứ Hai, 11/12/2023 Lượt xem: 7375 In bài viết

Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) vừa qua đã đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống về tình hình và kết quả 10 năm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới mà Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đề ra.

Thành tựu đạt được là toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó, lĩnh vực quốc phòng, an ninh (QP, AN), đối ngoại có những kết quả tiêu biểu, rõ nét:

Một là, thường xuyên giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với QP, AN và lực lượng vũ trang (LLVT).

Vai trò lãnh đạo của Đảng thường xuyên được giữ vững; hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, phương thức lãnh đạo từng bước được hoàn thiện và vận dụng hiệu quả trong thực tiễn; hiệu lực quản lý nhà nước được nâng lên; mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị được củng cố. Năng lực hoạch định đường lối, thể chế hóa và thực hiện nghị quyết về QP, AN của các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở được phát huy. Đảng đã ban hành và triển khai đồng bộ nhiều chiến lược quan trọng, như: Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược BVTQ trên không gian mạng. Đó là cơ sở quan trọng để các ban, bộ, ngành, địa phương xây dựng các chương trình hành động, kế hoạch cụ thể để thực hiện nghị quyết theo chức năng, nhiệm vụ. Từ đó, đã xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), thực hiện nhiệm vụ QP, AN trên phạm vi cả nước, nhất là trên các địa bàn chiến lược.

Kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 179, Trung đoàn 282 (Sư đoàn 375, Quân chủng Phòng không-Không quân) làm công tác chuẩn bị chiến đấu trong diễn tập. 

Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW và Nghị quyết số 12-NQ/TW lãnh đạo xây dựng Quân đội nhân dân (QĐND) và Công an nhân dân (CAND) vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, các nhiệm vụ, các mặt công tác: Huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), học tập, công tác, lao động sản xuất. Các tổ chức đảng trong LLVT thường xuyên được kiện toàn, phát huy vai trò và hiệu lực lãnh đạo phù hợp với biên chế, tổ chức mới. Công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được chú trọng; phòng, chống có hiệu quả âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội và đòi đa nguyên, đa đảng. Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp BVTQ trong tình hình mới.

Hai là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), nền an ninh nhân dân (ANND); xây dựng thế trận QPTD, thế trận ANND gắn với xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ.

Nền QPTD ngày càng được xây dựng vững mạnh; tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng được tăng cường; phát huy tốt sức mạnh tổng hợp, huy động hiệu quả các nguồn lực xây dựng, củng cố nền QPTD gắn với nền ANND. Công tác bồi dưỡng kiến thức QP, AN được đẩy mạnh, chất lượng, hiệu quả nâng lên.

Xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch phát triển KT-XH gắn với bảo đảm QP, AN trên 6 vùng chiến lược của đất nước. Thực hiện chặt chẽ, hiệu quả kết hợp phát triển KT-XH với củng cố QP, AN. Chủ động điều chỉnh Quyết tâm BVTQ, thế bố trí quốc phòng phù hợp với tình hình mới. Phòng thủ quân khu và khu vực phòng thủ các cấp, nhất là trên các địa bàn trọng điểm, tuyến biên giới, biển đảo ngày càng được củng cố vững chắc, toàn diện, gắn với xây dựng, phát huy tốt “thế trận lòng dân”. Thực hiện hiệu quả chủ trương xây dựng và phát huy hiệu quả các khu kinh tế-quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, gắn với bố trí hợp lý dân cư ở khu vực biên giới, tạo phên giậu vững chắc, tăng cường được sức mạnh phòng thủ trên từng địa bàn và phạm vi cả nước. Khả năng phòng thủ quốc gia được nâng lên. Nền ANND có bước phát triển nhất định cả về chiều rộng, chiều sâu, ngày càng vững chắc. Sự gắn kết giữa xây dựng thế trận QPTD và xây dựng thế trận ANND chặt chẽ, hiệu quả thiết thực hơn.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển từng bước vững chắc; kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện và duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực kinh tế tăng lên. Tăng cường dự trữ cơ sở vật chất cho quốc phòng; nâng cao khả năng huy động nhân tài, vật lực và động viên khi có tình huống quốc phòng. Tiềm lực chính trị, văn hóa, xã hội và đối ngoại được nâng cao. Đã chú trọng xây dựng hệ thống chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân BVTQ. Ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào lĩnh vực quốc phòng đạt được một số kết quả thiết thực, góp phần sản xuất, cải tiến vũ khí trang bị, hiện đại hóa chỉ huy, huấn luyện, SSCĐ. Nền công nghiệp QP, AN đạt được một số kết quả rất đáng khích lệ, nhất là bước đột phá, làm chủ công nghệ lõi, nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất được nhiều loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại và nhiều sản phẩm lưỡng dụng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của LLVT và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xây dựng LLVT có chuyển biến quan trọng, tập trung xây dựng QĐND, CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; sức mạnh chiến đấu được nâng cao, thực sự là lực lượng nòng cốt của nền QPTD. Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp xây dựng QĐND, CAND theo hướng “tinh, gọn, mạnh” với cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm; ưu tiên quân số cho các đơn vị SSCĐ, huấn luyện, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Công tác huấn luyện, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật có bước đổi mới, từng bước đi vào chiều sâu. Điều chỉnh, sắp xếp lực lượng CAND theo phương châm “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở” đạt kết quả tốt. 

Lực lượng dự bị động viên được tổ chức xây dựng, quản lý chặt chẽ, chất lượng tổng hợp ngày càng cao; sắp xếp theo đầu mối, địa bàn, cân đối giữa các vùng, miền. Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển; coi trọng nâng cao chất lượng, đặc biệt là chất lượng chính trị, phát huy vai trò hoạt động của chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn; lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở được xây dựng, củng cố đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ từ sớm, từ xa, từ cơ sở.

Ba là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; BVTQ từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy.

Thành tựu cơ bản, bao trùm là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, lợi ích quốc gia-dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, xã hội để xây dựng và phát triển đất nước.

Chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược; nắm vững tình hình thế giới, khu vực, trong nước; đối tác, đối tượng; âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù địch, kịp thời có chủ trương, đối sách từ sớm, từ xa, xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến độc lập, chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo, lợi ích quốc gia-dân tộc.

Độc lập, tự chủ quyết định con đường phát triển của đất nước theo định hướng XHCN. Kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng và BVTQ; giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với QP, AN và QP, AN với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại ngày càng chặt chẽ trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH. 

Giữ vững độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại; tích cực, chủ động, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, hội nhập toàn diện, bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia-dân tộc với lợi ích của các đối tác, góp phần xây dựng, củng cố lòng tin; thúc đẩy hợp tác ứng phó với những thách thức chung; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP, AN, nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cấp, ngành và toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ với đối tác, đối tượng có bước chuyển quan trọng. Coi trọng đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Phối hợp xử lý kịp thời, hiệu quả, từng bước đẩy lùi các loại tội phạm; giữ được trong ấm, ngoài êm, không để xảy ra biến động chính trị hay đối đầu, xung đột vũ trang. Thực hiện tốt nhiệm vụ phòng thủ dân sự, phòng ngừa và ứng phó kịp thời, hiệu quả với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.

Thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm cơ sở cho ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chiến lược, đề án quan trọng về quân sự, quốc phòng, góp phần hoàn thiện, phát triển tư duy lý luận, đường lối, nghệ thuật quân sự, an ninh đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ BVTQ cả trước mắt và lâu dài.

Bốn là, xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt; xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

10 năm qua, việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu. Làm tốt việc quán triệt, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại, của nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, từ đó nâng cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của từng cán bộ, đảng viên và toàn dân thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại góp phần phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng và BVTQ trong tình hình mới.

Công tác hội nhập quốc tế, đối ngoại QP, AN đi vào chiều sâu với nhiều đổi mới, sáng tạo, đạt kết quả toàn diện cả song phương và đa phương. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược quan trọng với sự phát triển và bảo đảm QP, AN của đất nước; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc; xúc tiến các hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ... 

Công tác xây dựng, hoàn thiện đường lối, chủ trương, luật pháp, cơ chế, chính sách về công tác đối ngoại được quan tâm, chú trọng. Bộ Chính trị đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, kết luận về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; Nhà nước ban hành nhiều văn bản luật, nghị định, chiến lược làm cơ sở pháp lý để các ban, bộ,  ngành, địa phương xây dựng đề án, chương trình hành động thực hiện tốt các nhiệm vụ đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển khai toàn diện và đạt được nhiều kết quả quan trọng, khẳng định vai trò của đất nước trong việc tham gia xây dựng các khung khổ, nguyên tắc, chuẩn mực chung của các thể chế đa phương, khu vực và toàn cầu; làm tốt công tác bảo hộ công dân và bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn và các đối tác.  

Những kết quả nêu trên là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp khó lường. Sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược, sách lược phù hợp với tình hình mới, nhằm tăng cường sức mạnh QP, AN, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Để tiếp tục thực hiện tốt Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ QP, AN và đối ngoại. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là giải pháp có tính quyết định trong lãnh đạo, quản lý nhiệm vụ QP, AN và đối ngoại, như Đảng ta đã xác định: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với QĐND, CAND và sự nghiệp QP, AN; đồng thời, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. 

Thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục QP, AN; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành đối với nhiệm vụ QP, AN và đối ngoại. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao tri thức về QP, AN và đối ngoại cho đội ngũ cán bộ các cấp và toàn dân, làm cơ sở tổ chức thực hiện nhiệm vụ QP, AN, đối ngoại có hiệu quả nhất. Từ nhận thức sâu sắc, sẽ tạo sự chuyển biến tích cực trong thực hiện nhiệm vụ QP, AN và đối ngoại, tạo sức mạnh tổng hợp cho BVTQ.

Thứ ba, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền QPTD và nền ANND; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận QPTD và thế trận ANND, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Đây là giải pháp cơ bản để xây dựng tiềm lực, thế trận, lực lượng QP, AN và đối ngoại trong phòng thủ đất nước. Có các nguồn lực mạnh và thế trận vững chắc, được gắn kết chặt chẽ theo một kế hoạch chiến lược thống nhất, sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước trong BVTQ.

Thứ tư, tiến hành rà soát, bổ sung các cơ chế, chính sách, các văn bản pháp luật cho phù hợp với thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế, giải quyết mối quan hệ chặt chẽ, hài hòa giữa QP, AN và đối ngoại, BVTQ trong tình hình mới; bảo đảm các cơ chế, chính sách tạo động lực cho tăng cường sức mạnh QP, AN, đối ngoại, BVTQ trong tình hình mới.

Theo QĐND
Bình luận
Back To Top