ĐBP - Chiều nay (5/6), kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV thảo luận ở tổ về Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Tham gia phát biểu, đồng chí Lò Thị Luyến, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh có ý kiến về nội dung cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Mâu thuẫn về thẩm quyền cấp phép khai thác, sử dụng nước mặt
Đại biểu cho biết, qua nghiên cứu dự thảo Luật và dự thảo Nghị quyết hướng dẫn thi hành luật cho thấy, quy định về thẩm quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ hiệu lực, thu hồi và cấp lại giấy phép đối với trường hợp khai thác, sử dụng nước mặt để phát điện của UBND cấp tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn giữ nguyên như quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012 và Nghị định số 02/2023/NĐ-CP ngày 01/02/2023. Theo đó, thẩm quyền về của UBND tỉnh cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa thống nhất với quy định về thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) dự án thủy điện của Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP.
“Thẩm quyền thẩm định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với dự án thuỷ điện có công suất từ 2MW đến 20MW chưa cụ thể, do đó, khi triển khai các dự án thuỷ điện rất khó khăn, gửi hồ sơ báo cáo ĐTM về Bộ Tài nguyên và Môi trường thì Bộ không thẩm định, chỉ thẩm định đối với dự án thuỷ điện từ 20MW; địa phương thì không thẩm định được do không thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh. Những khó khăn, vướng mắc này, địa phương đã kiến nghị nhiều lần, các bộ, ngành cũng nhận thấy sự mâu thuẫn nhưng khi sửa luật và các văn bản hướng dẫn lại không được quan tâm đúng mức” – Đồng chí Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh nhấn mạnh.
Đại biểu đề nghị bổ sung một điều vào dự thảo Luật, quy định theo hướng: Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ hiệu lực, thu hồi và cấp lại giấy phép đối với trường hợp khai thác, sử dụng nước mặt để phát điện với công suất lắp máy từ 20MW trở lên. Phân cấp cho UBND cấp tỉnh thẩm quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ hiệu lực, thu hồi và cấp lại giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt để phát điện với công suất lắp máy dưới 20MW đảm bảo thống nhất với quy định của Luật Bảo vệ môi trường về thẩm quyền của UBND cấp tỉnh trong thẩm định, phê duyệt báo cáo tác động môi trường đối với các dự án thuỷ điện có công suất dưới 20MW. Đồng thời bổ sung quy định đối với trường hợp khai thác, sử dụng nước mặt để phát điện với công suất lắp máy dưới 0,5MW thì không phải đăng ký, xin phép.
Bảo đảm an ninh nguồn nước
Tham gia phát biểu ý kiến vào dự thảo Luật, đồng chí Tạ Thị Yên, Phó trưởng Ban Công tác đại biểu, ĐBQH tỉnh nhận định, tài nguyên nước của Việt Nam về cả số lượng và chất lượng đều đang đối mặt với những đe dọa ngày càng lớn nên cơ quan soạn thảo cần bám sát tinh thần Nghị quyết, Văn kiện của Đảng, nhất là cụ thể hóa Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 gắn với diễn biến tình hình thực tế những năm gần đây.
Trong đó, cần gắn với diễn biến tình hình thực tế những năm gần đây, đó là: các vấn đề cạn kiệt nguồn nước trên các dòng sông chính, xâm nhập mặn, các hiện tượng cực đoan của thời tiết do biến đổi khí hậu, việc xây dựng nhiều công trình thủy điện, thủy lợi trên các dòng sông, phát triển đô thị, khu công nghiệp, khu logistics, cảng… ở các cửa sông, cửa biển. Đại biểu cho rằng, cần quy định trong dự thảo Luật nội dung: Nhà nước có các chương trình xây dựng hồ, đập lớn để dự trữ nước ở các vùng miền phù hợp với tình trạng khan hiếm nguồn nước và đặc điểm địa hình, khí hậu, nhất là ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Về ô nhiễm nguồn nước, ĐBQH Tạ Thị Yên dẫn một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, nếu không có hành động can thiệp để ngăn chặn các mối đe dọa này, nền kinh tế Việt Nam có thể bị tổn thất khoảng 6% GDP mỗi năm từ năm 2035 so với kịch bản không có các mối đe dọa. Mối đe dọa chính là tác động của nguồn nước ô nhiễm lên sức khỏe con người, có thể làm giảm 3,5% GDP vào năm 2035. Tác động nhỏ hơn khoảng 0,8% tới năng suất lúa là do ảnh hưởng của chất lượng nước kém. Mô hình này chưa tính đến hậu quả kinh tế do các hình thức ô nhiễm nước khác, bao gồm cả xâm nhập mặn của nguồn nước mặt và nước dưới đất. Mức độ ô nhiễm cao còn hạn chế sự phát triển bền vững và tương lai của các ngành công nghiệp, nông nghiệp. Việt Nam sẽ tiêu tốn khoảng 12,4 - 18,6 triệu đô la mỗi ngày cho chi phí xử lý do ô nhiễm vào năm 2030 nếu không có các biện pháp xử lý kịp thời.
“Tôi cho rằng, việc quy định đồng bộ với một số luật chuyên ngành về quy hoạch, bảo vệ môi trường, đầu tư… là rất quan trọng để đảm bảo phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước. Đồng thời, để tránh thiệt hại về kinh tế cho tổ chức, cá nhân khi đầu tư xây dựng công trình khai thác, sử dụng nước và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân đang khai thác, sử dụng nguồn nước thì trước khi điều chỉnh, bổ sung công trình khai thác, sử dụng nước cần phải xác định được sự phù hợp của công trình với quy hoạch về tài nguyên nước, chức năng nguồn nước, khả năng nguồn nước, cũng như sự tác động đến hoạt động khai thác, sử dụng nguồn nước khác” - Đồng chí Phó trưởng Ban Công tác đại biểu nhận định.
Về tài chính nguồn nước, đại biểu đề nghị rà soát kỹ lại các quy định có liên quan đến các khoản thuế, phí, lệ phí hiện hành để nhằm vừa có nguồn thu, vừa tạo nguồn lực để thực hiện hoạt động quản trị tài nguyên nước từ ngân sách nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho việc huy động nguồn thu dịch vụ, nguồn đóng góp của tổ chức, cá nhân... Bên cạnh đó, đại biểu đồng tình với những chính sách quy định trong dự thảo Luật về xã hội hóa ngành nước để “nước có giá” chứ không còn “rẻ như cho” nữa, từ đó khuyến khích sử dụng nước có trách nhiệm, tiết kiệm, hiệu quả. Đồng thời, khẳng định việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư bảo vệ, phát triển, tích trữ nước, phục hồi nguồn nước là những hoạt động quan trọng để bảo đảm an ninh nguồn nước.