ĐBP - Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”(Đề án 06) là một nội dung quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh cải cách hành chính, có ý nghĩa rất quan trọng phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và chuyển đổi số quốc gia, mang lại nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài, xây dựng Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số giai đoạn 2022 - 2030; tạo điều kiện thuận lợi cho công dân và tổ chức, góp phần làm giảm áp lực giấy tờ công việc lên chính các cơ quan quản lý nhà nước. Để kiểm tra tiến độ triển khai thực hiện Đề án 06 tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn toàn tỉnh, vừa qua, Ban chỉ đạo Đề án 06 tỉnh đã kiểm tra tại 10 đơn vị cấp huyện, 17 đơn vị cấp xã.
Tại thời điểm kiểm tra, 100% các xã, bản (129 xã, 1.447 bản) trên địa bàn đã thành lập Tổ công tác thực hiện Đề án và ban hành Quy chế hoạt động để triển khai thực hiện; 8/10 đơn vị triển khai mô hình điểm thực hiện Đề án 06. Về cơ bản, các đơn vị đã đáp ứng yêu cầu của Đề án về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực để thực hiện kết nối, chia sẻ với hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ dịch vụ công trực tuyến và chuyển đổi số quốc gia. Tuy nhiên, một số đơn vị, số thiết bị được trang cấp đã cũ, hỏng, cấu hình thấp làm ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận các thủ tục hành chính trên Cổng dịch vụ công. Bên cạnh đó, toàn tỉnh vẫn còn 11.888 hộ dân chưa sử dụng điện lưới, 62 bản chưa có dịch vụ viễn thông, mạng 3G, 4G yếu dẫn đến việc sử dụng các dịch vụ công còn gặp nhiều khó khăn. Toàn tỉnh hiện có 962 tài khoản đề nghị kết nối vào hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; 14/25 dịch vụ công thiết yếu đã được triển khai ở mức độ 3, 4.
Trên địa bàn toàn tỉnh, đã có 460 thủ tục hành chính (TTHC) thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện và xã được đưa vào cung cấp dịch vụ, tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC đạt 22,59% đối với cấp huyện và 9,63% đối với cấp xã. Việc triển khai nhóm tiện ích phục vụ phát triển kinh tế xã hội, công dân số cơ bản đã được các đơn vị quan tâm, thực hiện. Toàn tỉnh đã thu nhận 427.844/476.214 hồ sơ cấp CCCD, đạt 89,8%. Trong đó 5 đơn vị : Mường Chà, TX. Mường Lay, TP. Điện Biên Phủ, Mường Ảng, Tuần Giáo tỷ lệ thu nhận đạt trên 90% . Đã có 89.791 hồ sơ định danh điện tử được thu nhận phụ vụ công dân số. Các đơn vị đã chủ động phối hợp với Ngân hàng Viettinbank và các doanh nghiệp Viễn thông cấp 9.419 tài khoản ngân hàng phục vụ thanh toán phí, lệ phí quan cổng dịch vụ công trực tuyến, chuyển đổi 935 sim chính chủ cấp 1.384 sim điện thoại cho công dân, phục vụ đăng ký tài khoản dịch vụ công trực tuyến, định danh điện tử. Tổ công tác Đề án 06, Tổ Công nghệ cộng đồng cấp xã cũng đã tăng cường công tác phối hợp với lực lượng công an, các cơ quan, đơn vị liên quan hướng dẫn công dân đăng ký 11.612 tài khoản dịch vụ công phục vụ thực hiện TTHC trên môi trường điện tử.
Thực hiện triển khai các nội dung hoàn thiện hệ sinh thái, phục vụ kết nối, khai thác, bổ sung làm giàu dữ liệu dân cư. Qua kiểm tra, có 99,98% dữ liệu được làm sạch đảm bảo “đúng, đủ, sạch, sống” và đồng bộ vào hệ thống, cơ bản đáp ứng yêu cầu kết nối, chia sẻ thông tin dân cư với các cơ quan, đơn vị. Các thông tin, dữ liệu từ nguồn Bộ Tư pháp, BHXH đã được rà soát, cập nhật và bổ sung kịp thời. Qua đó, đã triển khai thí điểm khám chữa bệnh BHYT bằng căn cước công dân (CCCD) gắn chíp điện tử tại 144 cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn. Tuy nhiên, việc triển khai khám, chữa bệnh bằng CCCD mới chỉ đạt tỷ lệ 19,6% thành công do cơ chế liên thông dữ liệu với các dữ liệu chuyên ngành hiện nay chưa được kết nối, CCCD của người dân chưa tích hợp dữ liệu về BHYT phục vụ cho công tác khám chữa bệnh BHYT. Bên cạnh đó, một số cơ sở khám chữa bệnh còn chưa có thiết bị đọc được mã trên thẻ CCCD nên mất nhiều thời gian nhập thủ công thông tin, việc cập nhật dữ liệu còn chậm, việc kết nối với cổng giám định để tra các thông tin trên thẻ CCCD còn gặp nhiều khó khăn do hệ thống dữ liệu chưa liên thông đồng bộ.
Để tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về những tiện ích tối ưu mà các dịch vụ được triển khai trong Đề án mang lại, nhiều đơn vị đã chủ động xây dựng các bài tuyên truyền bằng nhiều thứ tiếng (Thái, Mông, Khơ Mú) phát trên loa phát thanh đến tận thôn, bản, tổ dân phố; đã phát 16.000 tờ rơi tuyên truyền về Đề án tới tận tay người dân. Tổ công tác thực hiện Đề án 06 cũng tăng cường xuống nhà dân để hướng dẫn tạo tài khoản đăng ký dịch vụ công trực tuyến; nhiều điểm dịch vụ truy cập internet miễn phí phục vụ đề án được triển khai để hỗ trợ nhân dân trong việc lập tài khoản, dễ dàng, thuận tiện trong việc sử dụng các dịch vụ, tiện ích. Theo thống kê, 6 tháng đầu năm 2022, các Tổ công tác thực hiện Đề án 06 trên địa bàn tỉnh chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí, phòng văn hóa thông tin đăng tải, phát sóng hệ thống các tin, bài, phóng sự, chuyên trang, chuyên mục để Nhân dân nắm, hiểu rõ hơn về đề án. Qua đó, giúp nhân dân từng bước tiếp cận với công nghệ thông tin, môi trường điện tử và tiếp cận với 25 dịch vụ công thiết yếu của Đề án.
Đoàn kiểm tra đã chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế, qua đó đưa ra những chấn chỉnh, kiến nghị cụ thể đối với từng đơn vị. Nhấn mạnh việc các đơn vị cần nhận thức triển khai thực hiện Đề án 06 không chỉ là việc làm của một cơ quan, đơn vị mà cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, mỗi đơn vị cần nâng cao vai trò, trách nhiệm, kiểm tra, đánh giá khách quan kết quả việc thực hiện Đề án; rà soát đúng thực trạng của đơn vị, địa phương để có phương án thực hiện phù hợp, đạt hiệu quả cao. Các đơn vị triển khai chậm, chưa quyết liệt cần khắc phục ngay và sửa chữa những tồn tại, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để phát huy hiệu quả những mục tiêu, nhiệm vụ và tiện ích của Đề án. Tiếp tục nâng cao hơn nữa công tác tuyên truyền với nhiều hình thức trực quan, cụ thể để nhân dân dễ dàng hiểu và tiếp cận với các dịch vụ được cung cấp trên Cổng dịch vụ công trực tuyến, góp phần để Đề án phát huy tối đa hiệu quả của mình là lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao đời sống cho nhân dân, phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh trên địa bàn.