Thúc đẩy quyền tham gia của người dân tộc thiểu số vào Quốc hội

16:36 - Thứ Sáu, 01/12/2023 Lượt xem: 4633 In bài viết

Đường lối chính trị của nhà nước Việt Nam luôn khẳng định các dân tộc thiểu số là bộ phận không thể tách rời quốc gia dân tộc và luôn coi trọng việc bảo đảm quyền chính trị, kinh tế, văn hóa; không phân biệt đối xử. Trong đó có quyền tham gia vào hệ thống chính trị nhà nước, đặc biệt là đối với cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội.

Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống lâu đời, trong đó có 53 dân tộc thiểu số (DTTS), với hơn 14 triệu người (chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước. Các dân tộc thiểu số có số dân không đồng đều, có nhóm đông trên một triệu người như Tày, Thái, Mường, Khmer, ngược lại có nhóm dân số chỉ dưới một nghìn người như: Si La, Pu Péo, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm. Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số phân bố trên 3/4 diện tích cả nước tại 51/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, chủ yếu ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung.

Quyền về chính trị, bầu cử và ứng cử là một trong những quyền con người cơ bản được ghi nhận trong Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD). Ở Việt Nam, quyền tham gia bầu cử, ứng cử được hiến pháp quy định là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm cử tri của 53 DTTS. Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 ghi nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân Việt Nam, không phân biệt dân tộc thiểu số hay đa số, chủng tộc, tôn giáo, không phân biệt đối xử, trong đó có quyền bầu cử, ứng cử. 

Trong nhiều nhiệm kỳ bầu cử vừa qua, tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu ở vùng đồng bào dân tộc thường chiếm tỷ lệ rất cao. Vai trò tham gia của các đại diện người DTTS trong bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị đại diện cho nhân dân cũng đạt thành tựu đáng kể, tăng cả về số lượng, chất lượng qua từng nhiệm kỳ. Đây là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực của Việt Nam trong việc nội luật hoá các quy định liên quan của ông ước CERD, thực hiện và bảo đảm quyền chính trị của mọi công dân, gồm cả người DTTS.

Vai trò của các Đại biểu Quốc hội người DTTS trong từng nhiệm kỳ Quốc hội

TS. Nguyễn Lâm Thành - Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội.

Tại Hội nghị cung cấp thông tin cho báo chí về công tác nhân quyền và thông tin đối ngoại tháng 11/2023, TS. Nguyễn Lâm thành - Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội cho biết, ngoại trừ Khóa 1, bầu cử Quốc hội trong một bối cảnh chính trị đặc biệt khi đó Việt Nam mới giành được độc lập thì tỷ lệ dân tộc thiểu số trong cơ quan Quốc hội đạt tỷ lệ  (10,2%) với 34/333 đại biểu. Giai đoạn tiếp theo từ Khóa II, III, thành phần đã tăng lên đáng kể (tương ứng 15,6 và 16,7%) và cao nhất giai đoạn này là Khóa IV năm 1971 - 1976 (tỷ lệ đạt 17,3%). Giai đoạn 1976 - 1992, có nhiều những biến động, thay đổi về tình hình chính trị, kinh tế  đất nước, tỷ lệ đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số xuống thấp hơn, chỉ trên dưới 14%. Đến giai đoạn 1997 - 2011, tỷ lệ dân tộc thiểu số 3 khóa liền đạt trên 17% và đã lên tới 17,65% (Khóa XII, 2007 - 2011). Nhiệm kỳ khóa XIII (2011 - 2016), tỷ lệ dân tộc thiểu số chỉ đạt 15,6%, nhiệm kỳ Khóa XIV (2016 - 2021) lại đạt 17,3% và nhiệm kỳ Khóa 15 (2021 - 2026) đạt 17,8 %, với 89/499 đại biểu của 32 dân tộc trúng cử, cao nhất các khóa Quốc hội, tức là gần với chỉ tiêu quy định mới về ứng cử viên dân tộc thiểu số theo luật định (18%).

“Tuy mức độ biến động tỷ lệ đại biểu dân tộc thiểu số trong cơ quan Quốc hội có khác nhau, có yếu tố giai đoạn, phụ thuộc vào hoàn cảnh, tình hình chính trị cũng như công tác cán bộ dân tộc thiểu số trong các giai đoạn này nhưng nhìn chung tỷ lệ đều đạt cao hơn tỷ lệ dân số dân tộc trong cơ cấu dân số quốc gia và đây là kết quả rất đáng ghi nhận” - TS. Nguyễn Lâm Thành khẳng định.

Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội chỉ ra rằng, về cơ cấu thành phần các dân tộc, thì mỗi nhiệm kỳ Quốc hội đều có đại diện của từ 28 - 32 dân tộc. Đến nay đã có tổng số 52/54 dân tộc (bao gồm cả dân tộc Kinh) và 51/53 dân tộc thiểu số đã có đại diện tham gia Quốc hội qua các khóa. Hiện chỉ còn 2 dân tộc Ơ đu (số dân dưới 1.000 người) và Ngái (số dân dưới 2.000 người) chưa có đại diện tham gia các khóa Quốc hội và đây cũng là mục tiêu Việt Nam phấn đấu để các dân tộc có đại biểu Quốc hội.

Theo đánh giá của TS. Nguyễn Lâm Thành, những kết quả trên cho thấy, trong suốt những năm vừa qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm quyền chính trị, trong đó có quyền bầu cử, ứng cử cho người dân tộc thiểu số, bảo đảm tỷ lệ thích đáng, phù hợp đại diện các dân tộc trong cơ quan Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp.

“Kết quả bầu cử Quốc hội các khóa, nhất là những năm trở lại đây là minh chứng rõ nét cho đường lối chính trị của Việt Nam thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, không phân biệt đối xử và luôn tạo cơ hội cho các dân tộc hòa nhập vào sự phát triển chung của quốc gia dân tộc, góp phần thực hiện tốt các công ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên” - TS. Nguyễn Lâm Thành nhấn mạnh.

Tiếp tục tăng cường sự tham gia vào hệ thống chính trị của đồng bào DTTS vào cơ quan Quốc hội

Cán bộ xã Phương Giao, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên tuyên truyền cho đồng bào các DTTS về quy trình, thủ tục bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)

Bên cạnh những thành tựu đạt được, đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cũng chỉ ra một số rào cản, hạn chế sự tham gia vào hệ thống chính trị, đặc biệt là cơ quan Quốc hội mà nguyên nhân sâu xa là từ điều kiện môi trường sống và môi trường phát triển.

Về nguyên nhân cụ thể, TS. Nguyễn Lâm Thành cho rằng: “Điểm chung nhất là do thiếu cơ hội học tập tốt nên chất lượng nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số nói chung chưa cao, cơ hội có vị trí việc làm trong hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội chưa nhiều dẫn đến cơ hội tham gia ứng cử hạn chế khi phải đáp ứng đủ các điều kiện về tiêu chuẩn ứng cử”.

Nguyên nhân tiếp theo được đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội chỉ ra là do những rào cản về mặt xã hội trong sự hòa nhập chung đối với người dân tộc thiểu số, do những quan niệm, định kiến có thể nảy sinh từ những khác biệt văn hóa, tập quán và cả nhận thức giữa các dân tộc. "Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều dân tộc, nhiều dân tộc có dân số ít nên việc bảo đảm cân bằng trong tương quan tính đại diện cũng là bài toán khó" - TS. Nguyễn Lâm Thành bày tỏ.

Ngoài ra, trong công tác ứng cử, bản thân người dân tộc thiểu số đôi lúc còn thiếu tự tin. Một số ứng viên chưa chuẩn bị đủ các điều kiện về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và bản lĩnh khi xuất hiện trước công chúng cũng như các cuộc tiếp xúc cử tri. Chưa kể đến một bộ phận cử tri còn chưa nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của bản thân trong bầu cử, về sự cần thiết có đại diện cho dân tộc trong cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước.

Để khắc phục tình trạng trên, TS. Nguyễn Lâm Thành chỉ rõ, nhiều biện pháp đã được triển khai thực hiện nhằm tăng cường sự tham chính của đồng bào dân tộc thiểu số vào cơ quan Quốc hội, bảo đảm tính đại diện, cơ cấu tỷ lệ phù hợp gắn với nâng cao chất lương ứng cử viên trong các cuộc bầu cử cũng như đại biểu Quốc hội khi trúng cử. Cụ thể là việc phát hiện, tập hợp giới thiệu nguồn ứng cử; Tiến hành công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng vận động tranh cử cho các ứng cử viên; Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, đặc biệt đối với cử tri, cử tri vùng dân tộc; Tiến hành công tác đào đạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động Quốc hội cho các đại biểu trúng cử đại biểu Quốc hội, nhất là đối với đại biểu là người dân tộc thiểu số, tiếp tục khẳng định vị thế, vai trò tham gia của các đại diện dân tộc thiểu số trong cơ quan Quốc hội của Nhà nước.

Trong mục tiêu dài hạn, đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho rằng, để tăng cường sự tham gia của đại diện DTTS vào hệ thống cơ quan dân cử các cấp, nhất là cơ quan Quốc hội cần tiếp tục làm tốt công tác phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ DTTS ở từng cấp theo từng vị trí dự kiến cụ thể. Đối với những cán bộ có tiềm năng nhưng còn chưa đủ chuẩn về trình độ chuyên môn hay lý luận chính trị, phải gấp rút đào tạo nhưng phải bảo đảm chất lượng. Mạnh dạn bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ DTTS vào nhiều lĩnh vực, vị trí. Chú ý đến cơ cấu dân tộc trên địa bàn để bảo đảm tính đại diện. Xây dựng lộ trình từng bước nâng chỉ tiêu cơ cấu tham gia của cán bộ DTTS vào hệ thống các cơ quan dân cử. Nhà nước cần ban hành các chính sách cụ thể, phù hợp hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt bậc phổ thông ở vùng DTTS, chú trọng đối với các dân tộc ít người, rất ít người; xây dựng đội ngũ trí thức dân tộc, tạo tiền đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực./.

Theo Dangcongsan
Bình luận
Back To Top