Dự thảo luật bổ sung quy định tại khoản 1, Điều 34, Chương Bảo vệ và phục hồi nguồn nước quy định về xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; ưu tiên phục hồi "dòng sông chết" nhằm khôi phục nguồn nước, tạo dòng chảy, cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái.
Chiều 27/11, Quốc hội thông qua dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với 94,74% đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tham gia biểu quyết tán thành.
Trước đó, theo Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy, về kê khai, đăng ký, cấp phép về tài nguyên nước (Mục 3, Chương IV), có ý kiến đề nghị quy định cụ thể quy mô lớn, vừa và nhỏ của công trình khai thác tài nguyên nước để dễ áp dụng.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, ý kiến ĐBQH là xác đáng. Tuy nhiên, do tài nguyên nước ở Việt Nam biến động rất lớn theo không gian (theo vùng, miền, tỉnh), thời gian (theo mùa) và ảnh hưởng lớn bởi nguồn nước từ nước ngoài, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Đồng thời, quy mô khai thác của công trình phụ thuộc vào mục đích khai thác, loại nguồn nước khai thác (nước mặt, nước dưới đất, nước biển), loại hình công trình khai thác nước (đập, hồ chứa, trạm bơm, cống…) nên khó quy định cụ thể quy mô công trình khai thác tài nguyên nước trong dự thảo luật.
"Vì vậy, khoản 9 Điều 52 dự thảo luật giao Chính phủ quy định chi tiết để đảm bảo tính linh hoạt trong xác định quy mô công trình, phù hợp với điều kiện nguồn nước, bảo đảm tính khả thi", ông thông tin.
Về công cụ kinh tế, chính sách và nguồn lực cho tài nguyên nước (Chương VI), có ý kiến đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định thêm các nguồn kinh phí hợp pháp khác ngoài ngân sách Nhà nước để thực hiện hoạt động quy định tại Điều 72 và Điều 74 dự thảo luật.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo luật đã được rà soát, chỉnh lý, bổ sung quy định về đảm bảo cơ chế chính sách về tài chính cho các hoạt động phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm: Kinh phí phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm được bố trí từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp môi trường, đầu tư phát triển, quỹ bảo vệ môi trường, nguồn chi trả của đối tượng gây suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước, nguồn đóng góp khác của tổ chức, cá nhân tại khoản 5 Điều 34.
Khuyến khích các tổ chức tài chính phát triển tín dụng xanh, trái phiếu xanh và các sản phẩm tài chính để hỗ trợ cho hoạt động phục hồi nguồn nước tại khoản 4, Điều 72. Xã hội hóa hoạt động phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm tại điểm a, khoản 1, Điều 74 thông qua ưu đãi đầu tư và kêu gọi sự tham gia của xã hội thông qua việc bổ sung quy định về phục hồi nguồn nước theo hình thức đối tác công tư.
Đồng thời, bổ sung quy định tại khoản 1, Điều 34, Chương Bảo vệ và phục hồi nguồn nước quy định về xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; ưu tiên phục hồi "dòng sông chết" nhằm khôi phục nguồn nước, tạo dòng chảy, cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái, trong đó kèm theo chương trình, đề án, dự án ưu tiên "làm sống" lại các dòng sông (như đang được bắt đầu với sông Bắc Hưng Hải, Nhuệ, Đáy, thông qua xây dựng các đập dâng để tạo dòng chảy).