Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết

“Đồng bào các dân tộc đều là anh em một nhà”

00:00 - Thứ Ba, 03/02/2015 Lượt xem: 1928 In bài viết
Normal 0 false false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-bidi-font-family:"Times New Roman";} ĐBP - Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành từ truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam. Qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần, ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.

Trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, Bác Hồ rất coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết các dân tộc thiểu số. Điều này cũng dễ hiểu bởi, cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác có nhiều quãng thời gian gắn bó với vùng đồng bào dân tộc. Có thể kể ra một số dấu mốc đáng chú ý như: Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí Minh đã về đến Pắc Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng - là nơi dừng chân ban đầu, trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Sau đó, Người tiếp tục dùng những địa danh: Định Hóa (Thái Nguyên); Tân Trào, Sơn Dương, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) làm vùng căn cứ địa cách mạng cho đến tháng 8/1945. Nơi đây chính là vùng sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Mông… Họ đã ngày đêm che chở, bao bọc, nuôi dưỡng, bảo vệ cách mạng; là những người đầu tiên hưởng ứng và tham gia khởi nghĩa, làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”

                                                                                     Hồ Chí Minh

Chỉ hơn 3 tháng sau ngày giành được chính quyền và tuyên bố với toàn thế giới về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã sớm tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ngày 03/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến nói chuyện với các đại biểu về dự Đại hội. Người nói rất ngắn gọn, nhưng đã tập trung nêu bật vấn đề phải xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số. Người cho rằng: "Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa…".

Tuy là đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc, nhưng do điều kiện đường sá lúc bấy giờ hết sức khó khăn, xa xôi nên nhiều dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nguyên và Nam bộ không ra dự được, nên hơn 4 tháng sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Chính phủ tiến hành Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, tổ chức tại Pleiku. Lúc này, do bận nhiều việc nước trong những này đầu mới thành lập, nên Người không vào dự được. Ngày 19/4/1946, từ Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Đại hội. Trong thư Người nhấn mạnh: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau....Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta…".

Trong cuộc kháng chiến 9 năm sau đó (1946 – 1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn bộ Chính phủ đã trở lại Tân Trào, sử dụng lại nơi này làm căn cứ địa cách mạng, tiếp tục chỉ huy cuộc kháng chiến trường kỳ đánh đuổi thực dân Pháp, làm nên thắng lợi trận Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu. Suốt một dải chiến dịch đều nằm trọn trong địa bàn vùng rừng núi Tây Bắc, là nơi sinh sống chủ yếu của rất nhiều đồng bào dân tộc thiểu số như: Thái, Mường, Tày, Nùng, Mông… Để có được chiến thắng đó, trước hết, những người chỉ huy cuộc cách mạng và toàn dân tộc Việt Nam, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số đã xây dựng được khối đoàn kết, tạo ra sức mạnh to lớn đánh đuổi đế quốc thực dân, phong kiến. Chính giai đoạn này đã củng cố thêm những tư tưởng trong con người và nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Tư tưởng ấy càng về sau càng hoàn thiện.

Với chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), một vùng rộng lớn các tỉnh Tây Bắc được giải phóng. Một năm sau, năm 1955, Chính phủ đã quyết định thành lập Khu tự trị Thái – Mèo với mục đích làm cho các dân tộc anh em ở nơi đây dần dần tự quản lý lấy công việc của mình, mau chóng phát triển kinh tế và văn hoá của mình, thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt. Ngày 7/5/1955, nhân dịp kỷ niệm một năm ngày giải phóng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi đồng bào Khu tự trị Thái – Mèo, trong thư có đoạn viết: "Từ một năm nay, vùng Tây – Bắc ta được hoàn toàn giải phóng, đó là do các dân tộc đoàn kết chặt chẽ, hăng hái kháng chiến; do bộ đội ta anh dũng đánh giặc; do Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo sáng suốt".

Sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên. Ảnh: ANH TUẤN

Để diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm; mở rộng quan hệ với các nước tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác dân tộc. Điều này được chứng minh qua việc cơ cấu thành phần tham gia Quốc hội khóa I đã có sự tham gia của đại diện các dân tộc thiểu số. Với cương vị Chủ tịch nước, Người đã mời đại diện các dân tộc thiểu số tham gia Chính phủ, hoặc giữ trọng trách ở các cơ quan Trung ương và địa phương. Không chỉ có vậy, Hồ Chí Minh còn chủ trương rất sớm việc hiến định trong Hiến pháp nội dung củng cố, xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số. Cụ thể, tại kỳ họp lần thứ 11, Quốc hội khoá I, ngày 18/12/1959, trong báo cáo do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo giải trình về việc xây dựng dự thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Người đã khẳng định: "Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp. Các dân tộc thiểu số đã sát cánh với anh em đa số chiến đấu chống kẻ thù chung, đưa Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến đến thắng lợi. Từ ngày hoà bình lập lại, Nhà nước ta đã giúp đỡ các dân tộc anh em tiến bộ thêm về mặt kinh tế, văn hoá và xã hội. Các dân tộc đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước hăng hái thi đua xây dựng nước nhà. Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội…".

Giai đoạn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy đã tuổi cao, sức yếu, nhưng Người vẫn dành nhiều thời gian đi thăm và nói chuyện với đồng bào dân tộc ở các tỉnh vùng cao, luôn quan tâm đến cuộc sống của đồng bào; tìm mọi cách để tiếp tục xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết giữa các dân tộc. Khi biết mình đã "Thất thập cổ lai hy", Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Di chúc để lại cho dân tộc, trong đó Người dặn dò toàn Đảng, toàn dân phải không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người viết: "Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

Những điều nêu trên đã cho thấy tư tưởng, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những điều Người dặn dò trong Di chúc luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngày nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người, đã và đang thực hiện điều đó nhằm góp phần vào việc xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".

Nguyễn Vân Chương

Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Bình luận
Back To Top