Đến với bài thơ hay
Cúc ơi
Tiểu đội về xếp một hàng ngang
Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp?
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ - Xuân - Hà - Hường - Hợi - Rạng – Xuân - Xanh
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh
Chỉ thiếu mình em (chín bỏ làm mười răng được!)
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em xanh
Áo em thì mỏng!
Cúc ơi! Em ở đâu?
Về với bọn anh tắm nước sông Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp năm em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở.
Cơm chiều chưa ăn
Ở đâu hỡi Cúc
Đồng đội tìm em
Đũa găm cơm úp
Gọi em
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi... ời... ơi...
Yến Thanh
Lời bình của Nguyễn Ngọc Phú
Những ngày tháng bảy, khí trời oi bức của nắng lửa gió Lào khi những cơn giông âm ỉ cuối trời xa, tôi đọc lại bài thơ “Cúc ơi” của Yến Thanh mà dư âm của cuộc chiến tranh cách đây hơn 40 năm, tiếng vọng của những va chấn tâm hồn, tiếng nấc nghẹn ngào của tình đồng đội cứ vọng về, day dứt.
Tác giả Yến Thanh kể lại thời khắc trưa ngày 25/7/1968, bấy giờ ông là cán bộ kỹ thuật giao thông ở Ngã Ba Đồng Lộc ngồi trong khu vườn cọ ở xóm sơ tán nơi 10 cỗ quan tài xếp hàng ngang. 9 cỗ đã “đũa găm cơm úp” chỉ còn một cỗ chưa tìm được tiểu đội phó Hồ Thị Cúc. Nghẹn ngào ông bật tiếng gọi quặn thắt: “Cúc ơi” và cứ thế mạch thơ tuôn chảy như một lời khấn cầu gọi hồn trong nước mắt. Bấy giờ ông chỉ mong sao những lời mình viết ra vọng lại âm dương cách biệt thấu đến linh hồn người đã mất cầu mong chị Cúc trở về với 9 chị em.
Có lẽ đây là một trong số ít bài thơ viết trực tiếp về một con người, có lý lịch, có thân phận xúc động lòng người. Bởi với Yến Thanh, cô thanh niên xung phong có cái tên như một bông hoa khiêm nhường thân thiết quá quen nhau và hiểu rõ hoàn cảnh của nhau. Nhịp điệu của bài thơ dài ngắn như nhịp của từng nhát cuốc bổ vào lòng đất để tìm thi thể đồng đội. Và đây có lẽ là lúc họ nghỉ tay giữa chừng để nói với nhau, để nói với Cúc: “Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc - Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần - Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng”. Chữ “chùng” như làm cả tứ thơ võng xuống. Võng xuống, chùng xuống cả trong lòng người, một khoảng lặng day dứt. Tiếng gọi đồng đội: “Cúc ơi em ở đâu” được lặp đi lặp lại như tiếng lòng thổn thức và cao hơn là một lời cầu nguyện, sự mong mỏi, kiếm tìm mà nghẹn thắt. Yến Thanh đã đặc tả trong nghẹn ngào, trong ước đoán thầm thì: “Đất nâu lạnh lắm/Da em thì xanh/Áo em thì mỏng”. Màu phù sa ruộng đồng, màu nâu của đất, màu xanh tái mét của da còn ngấm những cơn sốt rét làm quặn thắt lòng. Nhưng “Áo em thì mỏng” như đối lại cả bạt ngàn đất đá lấp vùi người con gái đang tuổi thanh xuân càng nhân lên tội ác của quân thù.
Yến Thanh gọi “Cúc ơi” mà như muốn vỗ về một người em gái. Một sự nâng niu: “Về với bọn anh tắm nước sông Ngàn Phố/Ăn quýt đỏ Sơn Bằng” dòng sông, đặc sản quê hương, rồi đến những ký ức tuổi thơ càng nhân lên vẻ đẹp tinh khiết cội nguồn sâu thẳm của người nữ thanh niên xung phong. Tất cả cứ giãi bày trong tiếng nấc nghẹn ngào. Chính những dòng tự sự tỉ tê này đã thấm, đã ngấm như những giọt nước mắt nhỏ vào lòng đất, như để người đã mất động lòng và thấu hiểu. “Cúc ơi em ở đâu” như tiếng khóc gào của đồng đội làm ta hình tượng gương mặt thất thần của những đồng đội đi tìm bạn mình. Và cho đến cuối bài, dòng thơ chỉ còn như tiếng nấc khi giọng lịm dần: “Cúc ơi. . ời..ơi..
Với “Cúc ơi” Yến Thanh đã góp cho thi ca Việt Nam đương đại một giọng trầm sâu lắng khi viết về sự hy sinh. Nghẹn ngào, nức nở mà không bi lụy. Bởi cao hơn hết đó là tấm lòng của người viết. Tiếng thơ chính là tiếng lòng!
Hà Tĩnh, ngày 14.07.2016